Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú giảng lần thứ 4 năm 2014

Phật sở hành xứ, quốc ấp khu tụ, mĩ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng, quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở.
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 1) 
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 09 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4 khi ngài ở độ tuổi gần 90)
Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người, xin mời ngồi. Hôm nay là ngày 09 tháng 03 năm 2014, chúng ta bắt đầu học tập “Đại Kinh Khoa Chú” lần thứ 4. Mỗi lần học tập đều giúp cho chính chúng ta hướng nâng lên trên.

 

Chương 7: Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 - Tập 4 - Phần 1

Phật sở hành xứ, quốc ấp khu tụ, mĩ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng, quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở. 
 
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 4A - 4B)
 
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 9 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4, khi ngài ở độ tuổi gần 90, vẫn rất minh mẫn, giải tường tận nguyên lý nguyên tắc Tịnh Độ)
Các vị pháp sư! Các vị đồng tu xin mời ngồi! Xin mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo.
A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.
 A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.
A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.
Mời xem “Đại Kinh Khoa Chú”, tờ thứ 147, chúng ta xem từ hàng thứ tư. Ba hàng phía trước là câu tiết lục ra từ trong cái đoạn này. Cái đoạn này là khi chúng ta lần đầu học tập “Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa” dùng, hiện tại tổng hợp lại với nhau, cũng là cung cấp cho đồng tu để làm tham khảo, không thể hoàn toàn giảng tỉ mỉ, nhưng có thể dùng cái phương pháp này.
“Hựu khế cơ giả, diệc ngụ khế hợp thời cơ chi nghĩa. Như Lai thùy từ, độc lưu thử kinh, ư chư kinh diệt tận chi tối hậu bách niên, chánh biểu thử kinh, năng khế ư đương tiền, cập vị lai chi xã hội dã[1]
Phật pháp quyết định là khế lý khế cơ. Lý là chân lý, lý chính là chân tướng sự thật, thật tướng các pháp. Nếu như không khế lý, đó là ma nói, không phải là Phật nói. Ngay cả Pháp thân Bồ Tát tuy rằng chứng đắc, nhưng chứng đắc này chưa viên mãn, phải đến quả địa Như Lai vậy mới chân thật viên mãn. Cho nên chúng ta học Phật nhất định phải y theo Phật đã nói, cái này là điều kiện thứ nhất. Phật đã nói ra là cảnh giới của Phật, là chánh tri chánh kiến của Phật có lúc cùng cách nghĩ cách thấy của chúng ta không như nhau, vào lúc này chúng ta phải nhận biết rằng cách nghĩ cách thấy của chúng ta sai rồi, Phật là tuyệt đối chính xác. Vậy thì phải đem cách nghĩ cách thấy của chính mình buông xả, chọn dùng chánh tri chánh kiến của Phật, thì đây gọi học Phật. Còn như thấy chúng ta cùng Phật nghĩ không như nhau, nếu y theo tri kiến của chính mình, không y theo giáo huấn của Phật, đây gọi là tự tạo nghiệp, quyết định không thể trách Phật Bồ Tát. Cho nên tín quan trọng hơn bất cứ thứ gì.
Đại Sư Ngẫu Ích nói sáu cái tín, cái thứ nhất là tin chính mình. Tin chính mình là tin cái gì? Đó không phải tin tri kiến của chúng ta, mà đó là tin những điều Phật nói với chúng ta rằng “tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật, nên chúng ta phải có tự tin, chính chúng ta vốn dĩ là Phật.
Lục Tổ nói “nào ngờ tự tánh năng sanh vạn pháp”. Cái vạn pháp này chính là toàn thể vũ trụ, câu nói này của Lục tổ chỉ cho ta thấy cả thảy vũ trụ từ đâu mà ra? Từ khởi tâm động niệm của chúng ta mà ra. Nếu không khởi tâm không động niệm, thì chúng ta chính là Phật, vốn dĩ là Phật, còn khởi tâm động niệm, liền biến thành phàm phu. Vì sao vậy? Khởi tâm động niệm là mê, không khởi tâm không động niệm là giác, giác mà không mê người này là Phật.
Nếu chúng ta tin tưởng cái chân tướng sự thật này thì Phật liền có thể giúp chúng ta quay về tự tánh, Phật có thể giúp chúng ta quay đầu là bờ, còn như chúng ta không có cái lòng tự tin này, thì đó là chúng ta không có cái nhân thành Phật.
Phật dạy bảo chúng ta, Phật giúp chúng ta quay đầu, đây là duyên, còn nhân là chính mình vốn có, duyên là Phật Bồ Tát giúp chúng ta. Có nhân, có duyên quả báo liền hiện tiền, quả báo này chính là thành Phật.
Tịnh Độ thành Phật là phân ra hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất đến thế giới Cực Lạc; giai đoạn thứ hai ở thế giới Cực Lạc thành Phật. Vì sao giai đoạn thứ nhất lại phải đến thế giới Tây Phương Cực Lạc vậy? Vì phương tiện dễ dàng, có thể bảo đảm chúng ta ngay đời này thành tựu. 48 nguyện của A Di Đà Phật rõ ràng tường tận nói với chúng ta, cho dù chúng ta tạo năm nghịch mười ác, nhưng chỉ cần ta chân thật sám hối, chịu quay đầu, về sau không tái tạo, niệm Phật thì hết thảy đều có thể vãng sanh. Điều này trong tám vạn bốn ngàn pháp môn không hề có. Cho nên phía trước nói cho chúng ta nghe, bổn kinh thù thắng ở khế cơ, khế lý.
Cái đoạn này giảng khế cơ. Cơ là chỉ tất cả chúng sanh, cái pháp môn này phổ độ tất cả chúng sanh, không bỏ sót một ai, chỉ cần bạn chân thật tin tưởng, chân thật phát nguyện, sám trừ nghiệp chướng, về sau không tái tạo, “phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”, bạn liền có phần, bạn liền thành tựu. Ở đây còn nói với chúng ta, khế cơ, không chỉ nói hợp căn cơ của tất cả chúng sanh, mà hơn nữa cũng là nói khế hợp thời cơ. Thời cơ là gì? Là thời tiết, thời đại. Xã hội của ba ngàn năm trước cái pháp môn này hữu dụng, hôm nay là ba ngàn năm sau cũng hữu dụng, vào thời đại ba ngàn năm sau nữa cũng vẫn hữu dụng. Không luận vào lúc nào, ở mọi lúc, vào mọi nơi đều hữu dụng. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, không có pháp môn nào có thể làm được như vậy.
Tịnh Tông niệm Phật vãng sanh bất thoái thành Phật, siêu việt thời không, siêu việt tất cả, không có chướng nạn. Trên kinh nói được rất rõ ràng, A Di Đà Phật từ bi vô tận, cảm tất cả chư Phật Như Lai ngay hiện tại nói pháp, không có vị nào không nói kinh này. Hơn nữa khi pháp vận của chư Phật kết thúc (tất cả chư Phật đều có chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp), đến khi pháp diệt, các kinh diệt hết, một trăm năm sau cùng “Kinh Vô Lượng Thọ” vẫn còn, “Kinh Vô Lượng Thọ” diệt sau cùng. Đây chính là biểu pháp, chính là biểu thị kinh này có thể khế hợp với ngay hiện tại, và đến xã hội tương lai vẫn luôn là hữu dụng.
Khoa học hiện tại phát triển nhân loại đầy đủ tri thức rộng lớn, xã hội tiến bộ, mỗi người gánh vác trách nhiệm gấp bội. Đây là việc tốt, nhưng vẫn là có vấn đề. Đó là mọi người xem thấy tiến bộ của xã hội, khoa học kỹ thuật phát triển, nhưng con người ở đời vừa phải có đạo đức, vừa phải có tri thức thì tiến bộ vững chắc, mới có hạnh phúc, mới có thọ dụng chân thật. Nếu như chỉ đơn độc một phương diện tiến bộ, ví dụ tri thức tiến bộ, nhưng đạo đức thì suy đồi, giống như một người tay trái thì rất khỏe mạnh, tay phải thì tàn phế, vậy thì đích thực là có tiến bộ, thế nhưng không khỏe mạnh. Xã hội chúng ta ngày nay đã phạm phải cái tâm bệnh này, khoa học tri thức phát triển, tri thức không ngừng thêm lớn, nhưng trí tuệ không có, kém khuyết trí tuệ, cho nên xã hội tiến bộ là tiến bộ một phương diện, chỉ tiến bộ một gối một chân, ngoài ra một gối một chân bị tàn phế rồi. Đây là tình hình xã hội ngày nay. Cho nên mỗi một người trên vai phải gánh vác trách nhiệm so với trước đây không biết phải nhiều hơn gấp bao nhiêu lần.
Xã hội cổ xưa chúng ta, người người đều có quê hương, nhưng người hiện tại nói “quê hương đó là lạc hậu”.Tôi cảm thấy quê hương không phải lạc hậu. Quê hương, sau khi chiến tranh Trung Nhật kết thúc thì không còn, không còn tìm được nữa, còn ở ngay trong tám năm đó thì vẫn còn, nhưng không nhiều, rất ít. Quê hương cống hiến đối với một người là chân thật, chúng ta là phần tử của gia đình, nếu như công tác ở bên ngoài gặp phải khó khăn, thì nhà của ta là hậu thuẫn rất đáng tin, chúng ta thiếu kém tiền bạc, thiếu kém nhân lực tài lực vật lực, gia đình trợ viện, thật rất đáng tin. Vì sao đáng tin? Vì không có bất cứ điều kiện gì. Đương nhiên mỗi một người khi công tác ở bên ngoài, tiền kiếm ra được, ngoài chi tiêu sinh hoạt thường ngày của chính mình, đều phải đưa về nhà, nhà dùng những số tiền này phần nhiều là chứa sản nghiệp.
Chúng ta từ xưa đến nay, sản nghiệp đáng tin nhất là gì? Là đất đai. Cho nên trong nhà tích chứa đất đai núi rừng, núi có thể trồng cây, đất đai có thể trồng lương thực, hoặc là chính mình trồng, hoặc là cho người nông dân mướn trồng. Cho nên gia đình có hằng sản, có sản nghiệp, có thể chăm sóc một tộc người này, khi tuổi tác già rồi không thể tiếp tục công tác, về nhà, trở về quê hương, về quê hương là cuối đời, cuối đời là hạnh phúc mỹ mãn chân thật. Một người hưởng phước là lúc nào? Tuổi già, về quê hương hưởng phước, gia đình sẽ chăm sóc bạn, quyết không phải là Viện Dưỡng lão vì viện dưỡng lão là nương tựa vào người khác, còn đây không phải là nương vào người khác mà là vào gia đình, là nhà, nhà phụ trách dưỡng già nuôi trẻ. Lịch sử chúng ta mấy ngàn năm, đời đời kiếp kiếp thánh hiền quân tử đều là trong nhà bồi dưỡng mà thành. Cho nên chúng ta từ nhỏ sanh ra trong một nhà, cái nhà này đích thực chính là một tổ chức xã hội, là đại gia tộc, không phải cái gia đình nhỏ. Một cái nhà đó có mấy trăm người, cái chế độ (gia tộc) này tốt, cái chế độ này không lạc hậu.
Hiện tại nhà không còn nữa, thì đời sống chúng ta không có bảo đảm, khi bạn gặp phải khó khăn ai giúp đỡ bạn? Giả như kinh tế bạn gặp phải khó khăn, bạn có thể đến ngân hàng để vay tiền, nhưng vay tiền ngân hàng nhất định phải có thế chấp, có bảo đảm, nếu không có bảo đảm, họ đem tiền cho bạn vay, bạn không thể trả thì họ phải làm sao? Không phải là việc dễ dàng. Chỉ có nhà, khi bạn gặp phải khó khăn, gia đình chi viện cho bạn, không kèm theo bất cứ điều kiện nào.
Với tuổi tác của tôi, lúc nhỏ còn thấy qua loại đại gia đình này, còn ở trong đại gia đình này mấy năm, đại khái ở qua năm sáu năm khi còn nhỏ, có ấn tượng sâu sắc, rất là ngưỡng vọng đối với loại hình thái này của thời xưa, rất là lưu luyến.
Người vào thời xưa từ nhỏ đã nhận qua giáo dục luân lý đạo đức, cho nên người tuyệt đại đa số là trung hậu thành thật, không giống như người hiện tại. Tuy nhiên, việc này không thể trách người hiện tại, vì hiện tại không có người dạy bạn. Cũng giống như Phật đã nói qua trong bộ kinh này tiên nhân vô tri”. “Tiên nhân” ở đây là trưởng bối của bạn, cha mẹ của bạn, ông bà nội, ông bà cố nội, họ đều không biết được, không nhận biết đạo đức, thậm chí không tin nhân quả, nên không có người dạy bạn. Ngày nay bạn làm sai việc cũng không thể trách bạn, vì bạn không có được học, nên trách bạn là sai lầm. Nếu như bạn học rồi thì có thể trách bạn, còn không có học, thì phải lượng thứ bạn, vì bạn vô tri đáng thương.
Xã hội ngày nay phổ biến đều là không nói luân lý, không nói đạo đức. Vì sao vậy? Vì họ cho đó là mê tín, ngay đến cả cổ thánh tiên hiền, xã hội ngay nay cũng đều không nói đến. Vì sao vậy? Vì cho thế là lạc hậu, không theo kịp thời đại. Khoa học kỹ thuật hiện tại họ làm sao có thể theo kịp, khoa học kỹ thuật đơn phương tiến hành. Khoa học gia nói với chúng ta, nếu như khoa học không ngừng tiến bộ, sau năm mươi năm, trên địa cầu này không thích hợp loại người tồn tại. Năm mươi năm rất nhanh, lời nói này có thật hay không? Chúng ta bình lặng mà nghĩ tưởng, là thật. Chúng ta từ quá khứ, tính từ lúc chiến tranh kết thúc đến nay đã là hơn 60 năm, hơn 60 năm này chúng ta tưởng tượng xem, lấy mười năm lại mười năm lại so sánh, chân thật là trượt xuống dốc, một cái mười năm không bằng cái mười năm trước. Ngày nay trên thế giới này có bao nhiêu người chúng ta gọi là phần tử tri thức, đối với xã hội còn có thể hồi phục an định hòa bình hay không? Khi mà một chút lòng tin cũng không có. Đây là một sự việc thật là đáng sợ.
Thập niên 70, năm 1970, tiến sĩ Thang Ân Tỷ nước Anh, còn kêu gọi những nhà khoa học này “những thứ khoa học nào không cần thiết thì không nên phát triển”. Lão nông thương tài là cần yếu là có giúp ích cho đời sống, còn những thứ không cần yếu như hướng thái không phát triển, thăm dò ngoài thái không thì đây đều là không cần thiết, tốn phí quá nhiều, không có lợi ích thực tế đối với chúng ta, còn việc đề xướng hồi phục nông canh truyền thống thì không có người tiếp nhận, không có người tin tưởng.
Người phương Tây chân thật có trí tuệ, họ thấy được rất rõ ràng những nhu cầu bức thiết ngay hiện tại chúng ta. Chân thật có thể cứu xã hội là giáo dục gì? Giáo dục nhân quả.
Chính ngay gần chúng ta, Tạ Tổng Hồ Châu, ba năm gần đây ông tổ chức luận đàn, hoàn toàn nói giáo dục nhân quả, sanh ra hiệu quả rất lớn. Loại giáo dục này ngày nay toàn thế giới đều cần thiết, luân lý đạo đức họ không tin tưởng, nhân quả bày ngay trước mắt của bạn, bạn hơi bình lặng một chút bạn liền có thể thấy được. Thiện có thiện quả, ác có ác báo, đích thực có đời nay có đời sau, bạn phải đem sự việc này làm cho rõ ràng, bạn khởi tâm động niệm tự nhiên liền sẽ thúc liễm, nghĩ tưởng ngay chính mình hành vi tạo tác đều là quả báo của ba đường ác. Họ đã làm được rất thành công. Cái lớp này của ông chúng ta đều phải nên tham dự, đều phải nên học tập, vì đích thực chúng ta cần đến loại giáo dục này. Ông hoàn toàn dùng đĩa quang (VCD, DVD), không có thầy giáo, sưu tập rất nhiều tư liệu nhân quả báo ứng hiện tiền. Như vậy bạn có thể không tin được hay sao? Không phải trong cổ điển đã nói, mà là ngay hiện tiền. Sự thật rất là sống động, mọi người nghe rồi, chân thật tâm lo sợ sanh khởi lên, khởi tâm động niệm đích thực có thúc liễm.
Đây là chúng ta ở chỗ này nói có một điểm thực nghiệm, phục hưng truyền thống văn hoá, phải dựa vào giáo dục nhân quả làm nền tảng, có giáo dục nhân quả mới có thể có giáo dục đạo đức, còn nếu chỉ có giáo dục đạo đức, không có giáo dục nhân quả, thì cái giáo dục đạo đức này không thể thực tiễn. Vì sao vậy? Vì trong não người có cái quan niệm cho rằng “cái giáo dục đạo đức này lạc hậu rồi, hiện tại là thời đại gì, còn đi nói cái gì hiếu thân tôn sư của người xưa, không nói”. Thế nhưng nếu bạn hiểu được giáo dục nhân quả, thì bạn sẽ không dám không hiếu thuận, không dám không tôn trọng trưởng bối, biết được đoạn ác tu thiện, biết được tích lũy công đức phải làm từ chỗ nào, từ hiếu thân kính lão, phải làm từ chỗ này.
Kinh này là khế cơ nên cho dù ở vào xã hội ngày nay vẫn là hữu dụng.
Chúng ta đọc đoạn văn phía sau:
“cố hàm ứng, quảng học đa năng, cúc cung tận tụy, tham gia kiến thiết, tạo phước nhân dân, thực hiện nhân gian Tịnh Độ,[2] 
Học phật không lạc hậu:
“vãn cận, Thái Hư Pháp Sư, đề xướng nhân gian Tịnh Độ, tằng tường dẫn Vô Lượng Thọ Kinh văn cú, cái dĩ thử kinh, song chiếu thế xuất thế gian, tường thị chân tục nhị đế”.[3]
Đây chính là trong “Kinh Vô Lượng Thọ” đã nói, đối với pháp thế xuất thế gian pháp đều nói được rất rõ ràng.
“Phù, Tịnh Tông chi diệu, tại ư bất ly Phật pháp, nhi hành thế pháp, bất phế thế pháp, nhi chứng Phật pháp”[4]
Lão Hòa Thượng Hải Hiền làm ra cho chúng ta xem, ông cả đời làm nông khai hoang, đất trống trong núi hoang, ông khai phá nó ra để trồng lương thực. Một người cả đời 92 năm, ông chỉ một mình khai phá đất hoang. Chúng ta xem thấy báo cáo có hơn 100 mẫu được khai hoang, diện tích khả quan, trồng lượng thực, trồng rau cải, trồng trái cây, chăm sóc mấy ngàn người, mấy vạn người, đây là thế pháp, còn một câu Phật hiệu không ngày nào quên đi, đó là Phật pháp. Canh điền trong tâm niệm Phật, làm cỏ niệm Phật, niệm Phật không chướng ngại làm việc, làm việc không chướng ngại niệm Phật.
Cũng giống như Lục tổ Đại Sư Huệ Năng ở Hoàng Mai tám tháng, bốn câu này cũng là của ngài viết ra, sự việc mà ngài đã làm là giã gạo, bửa củi. Đạo tràng của Ngũ Tổ lúc đó có mấy ngàn người, mỗi ngày phải ăn cơm, mỗi ngày phải đốt lửa. Ngài xuất thân là tiều phu, đây là bổn hạnh của ngài, mỗi ngày bửa củi giã gạo, cúng dường đại chúng. Ngài bửa củi, giã gạo không chướng ngại tham thiền. Thiền là cái gì? “trong không động tâm, ngoài không dính tướng”. Cho nên ngài làm được rất năng động, làm được rất hoan hỉ. Đến khi chín muồi rồi, ngài chính mình biết, không có người biết, nhưng Ngũ tổ biết được, Ngũ tổ nêu lên rằng Ngũ Tổ muốn truyền pháp vì chính mình già yếu rồi nên muốn truyền y bát. Tại vì sao Ngũ Tổ ngài không nói sớm hơn, cũng không nói trễ hơn mà lại muốn nói vào lúc này? Chính là vì vào thời điểm này người kế thừa đã chín muồi rồi, huấn luyện tám tháng thì đã thành công. Bạn thấy Huệ Năng, ngài ở trong đạo tràng tám tháng, dù trong đạo tràng có thiền đường, nhưng ngài chưa đến ngồi qua một cây hương, đạo tràng cũng có giảng đường, ngài cũng chưa từng nghe kinh qua một lần. Vậy ngài tham là cái gì? Chính là “trong không động tâm, ngoài không dính tướng”. Mỗi ngày làm việc, mỗi ngày phục vụ, đối nhân tiếp vật đều đang dụng công, chân thật buông xả. Buông xả gì? Buông xả chấp trước, buông xả phân biệt, buông xả khởi tâm động niệm. Nếu như vẫn còn khởi tâm động niệm, thì không thể minh tâm kiến tánh, sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần, không khởi tâm không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, nên Ngũ Tổ lão hòa thượng truyền pháp yếu cho loại người này, vì họ làm được rồi.
Ngũ Tổ lão hòa thượng đưa ra một đề mục, bảo mọi người đem cảnh giới của chính mình viết ra một bài kệ cho ngài xem, đây là khảo thí. Thần Tú Đại Sư làm ra một bài kệ, Đại Sư Huệ Năng xem qua thấy rằng Thần Tú chưa kiến tánh. Tại vì sao? Còn dính tướng: “thân là cây Bồ Đề”, dính tướng rồi, “tâm như đài gương sáng, cần phải thường lau chùi, chớ để bám bụi trần”. “Lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp”, Đại Sư Huệ Năng đem nó sửa lại “Bồ Đề không có gốc, gương sáng không có đài, vốn dĩ không một vật, chỗ nào dính bụi trần”, đây chính là điều mà Ngũ tổ cần. Cho nên canh ba nửa đêm, Ngũ Tổ triệu kiến ngài, bảo ngài đến thất phương trượng, rồi nói đại ý “Kinh Kim Cang” cho ngài nghe, làm ấn chứng cho ngài, giảng đến “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, ngài Đại triệt đại ngộ nói ra năm câu, “nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh”, đến “nào ngờ tự tánh năng sanh vạn pháp”. Ngũ Tổ nghe qua, nói được rồi, không cần phải nói nữa. Vì sao vậy? Đều thông rồi, một kinh thông, tất cả kinh thông. Ngũ Tổ bảo ngài nửa đêm rời khỏi, vì sao vậy? Vì có người đố kỵ chướng ngại, bảo ngài ẩn tích đi, đợi đến thời tiết nhân duyên chín muồi.
Ngài ẩn núp ở trong nhóm thợ săn 15 năm. Sau 15 năm, mọi người đều quên đi sự việc này, người không phục đại khái cũng không còn. Vào lúc này mới xuất hiện ở trong lịch sử Phật giáo chúng ta làm ra thành tích huy hoàng, đó là thiền tông từ tổ sư Đạt Ma đều là một đời truyền cho một người, truyền đến ngài là Lục Tổ đều là đơn truyền, nhưng chỉ một mình Lục Tổ, ngài truyền cho 43 người. Trong lịch sử thiền tông không có người thứ hai như ngài, trước Lục tổ Huệ Năng không có người như vậy, sau Lục tổ Huệ Năng cũng không có người như vậy. Ngài không biết chữ vì không có đi học, thế pháp cùng Phật pháp là một pháp không phải hai pháp, ngài ở Hoàng Mai tám tháng, không lìa Phật pháp mà hành thế pháp, không phế thế pháp mà chứng Phật pháp.
Hải Hiền, Hải Khánh, hai vị pháp sư này cũng là như vậy.
“Nhân trì danh chi pháp, tối vi phương tiện, tùy địa khả tu, hà đải độn nhập sơn lâm”[5] 
Tông môn thì phải là người thượng thượng căn, không phải người thượng thượng căn thì không hữu dụng.
Thế nhưng Tịnh Tông thượng trung hạ gồm nhiếp cả ba căn, thành tựu vãng sanh thế giới Cực Lạc, không thấp hơn Đại Sư Huệ Năng. Cho nên thiền, con đường đó chúng ta chắc chắn không làm đến được, thế nhưng Tịnh con đường này khẳng định đi được thông. Người phải cứu chính mình, không cứu chính mình chắc chắn đọa Vô Gián Địa Ngục. Vì sao vậy? Chúng ta bình lặng mà suy xét, chúng ta sinh thời, sinh hoạt làm việc đối người tiếp vật, hữu ý vô ý đã làm sai bao nhiêu việc. Ở trong nhà Phật năm nghịch, mười ác chính là tội Địa Ngục. Bạn bình lặng từng điều từng điều mà nghĩ, mười ác: sát sanh, trộm cắp, tà dâm (dâm nghĩa rộng là quá mức, nên không luận việc gì làm vượt quá mức thì đều gọi là dâm) vọng ngữ, hai chiều, thêu dệt, ác khẩu, tham, sân, si, bạn có đang làm không? Tuy là bạn không phải tạo tội năm nghịch nghiêm trọng như vậy, nhưng hãy thử suy xét:
-        Bất hiếu cha mẹ so với giết cha mẹ thấp hơn một bậc;
-        Không kính lão sư, xem thường Phật pháp. Lời của Lão Sư Lý nói càng khó nghe, gọi là tiêu khiển Phật pháp, họ là đến học Phật chăng? Không phải! đến để tiêu khiển, không phải thật học, tội lỗi này chính là địa ngục;
-        Phá hòa hợp tăng, chúng ta có làm hay không?
Chính mình bình lặng phản tỉnh thì liền biết, bạn ngay đời này đi là con đường nào, mười pháp giới, mười con đường đang ở trước mặt bạn, bạn đi là con đường nào? Bạn có thể che giấu người, nhưng không thể che được nhân quả, không thể che được Phật, Bồ Tát, không che được thiên địa quỷ thần.
Tiến Sĩ Tu Giám - Hoa Kỳ nói với chúng ta “thiên địa vạn vật, không có thứ nào là không có linh tánh”. Việc này Phật kinh có thể làm chứng minh, lượng tử lực học cũng có thể làm chứng minh. Đó chính là bất cứ hiện tượng vật chất nào thảy đều đầy đủ năm uẩn, đều có “sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
“Thọ” là cảm nhận, cũng chính là ngày nay chúng ta gọi là có cơ thể sống không phải là chết thì bất cứ một vật nào, một hạt vi trần, một cây cỏ nhỏ là nó là sống, nó có thể thấy, có thể nghe, khởi tâm động niệm của chúng ta nó đều biết. Vậy thì bạn có thể che giấu ai? Người hiểu rõ những chân tướng sự thật này chắc chắn không thể khởi ý niệm hại người, chắc chắn không thể làm việc có lỗi với người. Vì sao vậy? Vì có quả báo, khởi tâm động niệm trước tiên phải nghĩ đến quả báo, ý niệm này của ta, ta làm sự việc này, quả báo hiện tiền tương lai là thiện hay là ác.
Sau khi bạn xem nghĩ rõ ràng, bạn mới bắt tay vào làm, nếu không mà nói, tương lai đọa vào ba đường ác thì hối hận không kịp, thật đáng sợ.
Bạn gặp được Tịnh Tông là đại hạnh. Chỉ có Tịnh Tông có thể “đới nghiệp vãng sanh”, chỉ có Tịnh Tông mới có thể sám trừ tội nghiệp Vô Gián Địa Ngục. Thế nhưng điều kiện là bạn phải thật làm, còn nếu như vẫn là lừa gạt Phật Bồ Tát, tội tăng thêm một cấp.
“tùy thời khả niệm, bất lao bế quan án tọa”[6] 
Riêng pháp môn Tịnh Tông tùy lúc đều có thể tu, tùy lúc có thể niệm, không cần ở núi, đây là Phật dạy chúng ta. Phàm phu chúng ta nghiệp chướng rất nặng, không ngăn được cảnh giới bên ngoài cám dỗ, nên chúng ta sẽ khởi ác niệm. Cho nên người thời xưa tu hành xây đạo tràng phải xây ở trong núi sâu, chỗ không có dấu chân người, lên núi rất không thuận tiện, không có công cụ giao thông, lối mòn dê đi. Vì sao vậy? Chính là tránh bị nhiễu loạn. Cho nên chọn lựa những nơi này là để “bất lao bế quan án tọa”. “Bế quan” cũng là xa lìa quấy nhiễu, “án tọa” là thiền định, trong thiền đường tọa hương. Nhưng đối với Tịnh Tông không cần phải những hình thức này, ở mọi lúc vào mọi nơi thảy đều có thể tu hành, chính là một câu Phật hiệu niệm không gián đoạn, không luận làm bất cứ việc gì không quên niệm Phật, không luận làm cái gì, sau khi làm xong không để ở trong tâm, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, đây gọi Phật pháp. Cho nên Phật pháp cùng thế pháp có thể song hành, không chướng ngại nhau.
Phía sau nói rất hay:
“đản phát, quảng đại giác tâm, nhất hướng chuyên niệm danh hiệu, hạ chí thập niệm, nhất niệm, diệc đắc vãng sanh”[7].
Đây hoàn toàn là thật, “một niệm mười niệm” đây là nói lúc lâm chung. Sự việc này tôi nhắc nhở đồng tu, khuyến khích đồng tu phải học lão Hòa Thượng Hải Hiền, làm sao cho lúc lâm chung chính mình làm chủ, không cầu người khác trợ niệm. Đây chính là nói rõ một sự việc, việc gì? trợ niệm không đáng tin, trợ niệm sợ nhiễu loạn. Lão Hòa Thượng vãng sanh chọn lựa vào nửa đêm, mọi người đều ngủ nghỉ rồi, đợi các vị vừa ngủ nghỉ hết thì ngài ra đi, không có chút quấy nhiễu nào. Việc này quá quan trọng. Còn như chúng ta hy vọng người khác trợ niệm, đến lúc đó không có người đến trợ niệm thì phải làm sao? Vậy chẳng phải lại đi đến ba đường rồi sao? Nhất định phải có thể chính mình làm chủ được mới không việc gì.
Chúng ta xem thấy ở trong báo cáo này, mẫu thân của Lão Hòa Thượng Hải Hiền thật cừ khôi, bà là cư sĩ tại gia, tuổi già không người chăm sóc. Lão Hòa Thượng Hải Hiền vô cùng hiếu thuận với mẹ, đón bà đến ở trong đạo tràng để cúng dường. Ở trong đạo tràng qua một thời gian, bà biết trước giờ ra đi. Đó là một người niệm Phật, con trai bà niệm Phật đã niệm 90 năm, bà có thể không niệm Phật hay sao? Công phu niệm Phật của bà cũng không thấp hơn con trai, nhưng bà không nói, bà chỉ nói với con trai muốn về quê hương. Rời khỏi quê hương nhiều năm, đột nhiên muốn về quê hương. Trên thực tế nói “về quê hương” chính là vãng sanh. Quê hương bà vẫn còn con, còn cháu, cho nên sau khi về đến quê nhà, bà thảy đều triệu tập tất cả con cháu đến, cả nhà hoan hỉ cùng đoàn tụ, chính bà đích thân gói sủi cảo cho mọi người ăn. Sau khi ăn xong bà ngồi trên ghế nói với mọi người “ta đi đây!”. Nói lên một tiếng, đầu hơi nghiêng, bà đi thật, không cần người trợ niệm, không bị chút quấy nhiễu, đi được quá đột nhiên. Mọi người ở ngay hiện trường đều ngẩn ra, vừa rồi thấy bà còn ăn được rất vui vẻ, làm sao nói đi thì đi rồi. Đây đều là đến để biểu diễn. Biểu diễn gì? Một câu Phật hiệu không thể nghĩ bàn. Vào lúc đó là thời đại động loạn, điều kiện đời sống rất kém, nên Lão Hòa Thượng Hải Hiền liền dùng mấy tấm ván mỏng đóng thành một cái quan tài, để đem mẫu thân mai táng. Thế nhưng trước sau Lão Hòa thượng trong lòng bất an, cảm thấy có lỗi với mẫu thân, vì không có được chuẩn bị được tốt. Trải qua 6 năm hoàn cảnh cảnh tốt hơn, ngài muốn đem mẫu thân cải táng, khai quật mộ phần lên, khi mộ phần mở ra, không có người, không thấy mẫu thân đâu. Việc này quyết định không phải là lừa gạt người, chắc chắn không có người trộm mộ phần vì trong nhà bần hàn, một xu tiền cũng không có, không có chôn theo tài vật gì, không có, cho nên không thể nào có người trộm mộ.
Vì sao không hề thấy tử thi? Lúc này mọi người liền nghĩ đến tổ sư Đạt Ma năm xưa ở đời, cũng là diễn cái sự việc này. Có người từ Tây Vực đến nói với mọi người rằng họ thấy Đạt Ma mang một chiếc giày cỏ. Người khác nghe được lời nói này liền nói “làm gì có việc này”, liền đem quan tài của Đạt Ma mở ra, không có người, trong quan tài chỉ có một chiếc giày cỏ. Điều này chứng minh lời của người đó nói không sai, ngài đích thực là một chân mang một chiếc giày cỏ, người đi rồi.
Mẫu thân của Lão pháp sư Hải Hiền có phải là Bồ Tát tái lai hay không? Hay cũng giống như Đạt Ma vậy, du hý nhân gian? Việc này không có người chứng minh, còn tổ sư Đạt Ma thì có người nhìn thấy đi một chiếc giầy cỏ. Bà vì chúng ta mà làm biểu pháp cho pháp môn niệm Phật công đức thành tựu không thể nghĩ bàn. Khi mẫu thân ngài vãng sanh là 86 tuổi, thân thể khỏe mạnh, không cần người chăm sóc, trước khi ra đi cùng nói cười với mọi người, chính tay gói sủi cảo cho mọi người ăn, bà cũng không có nói trước với mọi người, ăn xong nói đi thì đi thật, là đột nhiên, làm cho mọi người cảm thấy rất kinh ngạc, một người khỏe mạnh như vậy vì sao nói đi thì đi ngay. Cho nên cái pháp môn này lâm chung một niệm mười niệm quyết định vãng sanh.
/30
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây