Pháp Uyển Châu Lâm

Giới thiệu bộ "Pháp uyển châu lâm"

Pháp uyển châu lâm một trăm quyển do pháp sư Đạo Thế tự Huyền Uẩn soạn vào đời Đường, Trung Quốc, Thị lang Lí Nghiễm viết tựa. Sách đã được ban Dịch thuật Pháp Âm chuyển sang tiếng Việt và xuất bản vào năm 2011, gồm bảy tập. Trải qua bảy năm lưu thông, năm nay theo nhu cầu của người đọc, ban Dịch thuật đã cho tái bản có sửa chữa và gom lại thành 5 tập với khổ lớn hơn.

 

Chương 45: Quyển 16 - Thiên thứ 6: Kính Phật - Thứ năm - Phát Nguyện

Thứ năm: PHÁT NGUYỆN

Chỉ vì phàm phu sức yếu, nghiệp ác quá nhiều. Sinh tại Ta-bà, tâm địa mỏng mảnh. Mới học Chánh pháp, lo sợ thối chí. Thường phát đại nguyện, giữ gìn đạo hạnh. Đến lúc lâm chung, tâm không phiền não. Gieo các căn lành, cùng với đồng loại, thanh tjhản vãng sinh, về đức Di-lặc. Được đến trước Phật, tự do tu học, chứng quả Bất thối. Không cầu vãng sinh ở ngoài cõi ấy, sợ nhiễm ngũ dục, không được giải thoát. Thế nên, luận Trí-độ nói: “Có người tu được chút ít nghiệp thiện, nghe chổ nào có phước đức, thường cầu nguyện được vãng sinh. Đến khi lâm chung, đều được sinh về chốn ấy.” Lại nữa, luận Đại-trang-nghiêm nói: “Vãng sinh Phật độ là chuyện lớn lao, chỉ tu về mặt công đức, chắc chắn không thể thành tựu. Phải cần đến nguyện lực, giống như bò tuy đủ sức kéo xe, nhưng có người đánh xe điều khiển. Vì thế, Phật độ thanh tịnh, cần có nguyện lực mới dẫn đến thành tựu. Nhờ có nguyện lực, phước đức Tăng trưởng, không mất không hỏng, nên mới thường xuyên gặp được chư Phật.” Lại như luận Thập-trụ nói: “Nếu có người phát tâm cầu nguyện đức Phật không ngừng, có người giơ ngón tay đặt Đại thiên thế giới vào giữa vũ trụ, nhưng chuyện ấy đều chẳng khó gì. Nếu có người phát đại nguyện: “Ta sẽ thành Phật!” Người này mới thật hiếm có. Tại sao thế? Bởi vì người đời tâm yếu và không có chí lớn.” Lại nữa, luận Phát-Bồ-đề-tâm có mười đại nguyện thường phải tu hành trọn vẹn:

1. Con nguyện đem mọi căn lành đã vun trồng từ kiếp trước đến đời này cúng dường cho tất cả chúng sinh, cùng hồi hướng về Phật đạo, khiến lời đại nguyện của con lớn dần theo từng niệm, đời đời không quên và hằng được Tổng trì che chở.

2. Con nguyện nhờ căn lành này sinh vào nước có đức Phật, hằng được cúng dường, chẳng sinh vào nước không có đức Phật.

3. Con nguyện hằng được thân cận chư Phật, hầu hạ hai bên, như bóng theo hình.

4. Con nguyện thân cận chư Phật, lại được chư Phật thuyết pháp giúp con thành tựu phép ngũ thông.

5. Con nguyện thông đạt thế đế, các pháp giả danh, hiểu rõ chân đế, chứng được Chánh pháp trí.

6. Con nguyện nhiệt thành thuyết pháp cho mọi chúng sinh, chỉ bày lợi ích, khiến tất cả đều hiểu thấu.

7. Con nguyện dùng thần lực của chư Phật đến mọi thế giới khắp mười phương, cúng dường chư Phật, nghe nhận Chánh pháp, gìn giữ chúng sinh.

8. Con nguyện tùy duyên hoằng pháp. Tất cả chúng sinh nghe con thuyếp pháp hay nghe tên con, đều xa lìa phiền não.

9. Con nguyện theo sát chúng sinh, giúp cho an lạc, hy sinh thân mạng tài sản, chăm lo gánh vác Chánh pháp, trừ bỏ những điều tai hại.

10. Con nguyện thực hành Chánh pháp, tâm không vướng bận, nhận làm tất cả, giúp đỡ chúng sinh không bỏ đại nguyện chân chính.

Con nguyện đem mười đại nguyện này nhiếp cho tất cả hà sa đại nguyện của các chúng sinh khắp mọi thế giới. Nếu thế giới chúng sinh tận diệt, đại nguyện này của con mới chấm dứt, nhưng thế giới chúng sinh không thể tận diệt, nên đại nguyện này của con cũng không thể chấm dứt. Nguyện đem công đức hóa độ chúng sinh khắp vô biên thế giới đều hồi hướng về Chánh giác Vô thượng, được sinh về trước đức Phật Di-lặc, nghe pháp thanh tịnh, chứng quả vô sinh nhẫn. Tất cả công đức của uy nghi đi đứng nằm ngồi tu hành suốt kiếp đến nay đều cùng pháp giới chúng sinh hồi hướng về trước đức Phật Di-lặc khiến mau chứng quả Bất thối.”

Pháp sư Huyền Trang nói rằng: “Đạo đời bên Ấn Độ đều thực hành pháp môn Di-lặc, vì cùng ở trong dục giới, hạnh nguyện ấy dễ dàng thành tựu. Các Sa-môn Đại thừa và tiểu thừa đều chấp nhận pháp môn này. Pháp môn Di-đà Tịnh độ, chỉ sợ kẻ phàm phu ô uế, khó tu hành nổi. Theo các kinh luận trước đây, từ hàng Thập địa trở lên, Bồ-tát tùy phẩm vị, được hưởng Phật báo Tịnh độ. Theo ý kiến các bộ luận mới đây, từ hàng Bồ-tát Tam địa, mới có thể hưởng Phật báo Tịnh độ. Nếu thế, kẻ phàm phu thấp kém làm sao có thể vãng sinh? Song đây cũng chỉ là ý kiến riêng biệt, chưa thể lấy làm chắc chắn. Do đó, Đại thừa bên ấy chấp nhận, nhưng Tiểu thừa không chấp nhận. Vì vậy, suốt đời pháp sư luôn luôn thực hành pháp môn Di-lặc. Đến lúc lâm chung, pháp sư phát nguyện được sinh lên thượng giới, gặp đức Phật Di-lặc. Pháp sư yêu cầu đại chúng cùng tụng kệ rằng:

“Nam-mô Di-lặc Như lai,
Ưng Chánh đẳng giác.
Nguyện cùng chúng sinh,
Mau gặp cha lành.
Nam-mô Di-lặc Như lai.
Tất cả đại chúng,
Nguyện mệnh chung xong,
Đều sinh về đó.”

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG

Thuật sơ lược 6 chuyện linh nghiệm:

1. Đái Qùy người nước Tiều đời Tấn. 2. Sa-môn Thích Đạo An đời Tống. 3. Ni cô Thích Tuệ Ngọc đời Tống. 4. Sa-môn Thích Tăng Hộ đời Lương. 5. Sa-môn Thích Linh Cán đời Tùy. 6. Sa-môn Thích Thiện Trụ đời Đường.

2. Xét rằng sắc tướng trang nghiêm nhất của chư Phật tuyệt diệu vô biên, chẳng được cơ duyên chiêm ngưỡng, không thể nào miêu tả nổi. Do đó, có nhiều tướng hảo không được lưu truyền. Than ôi! Nếu lấy tay phàm nắn nót pháp thân cực kỳ viên mãn, thử đem tóan số thí dụ, liệu có thể đạt được một phần trong muôn vàn? Từ khi đức Phật nhập diệt đến nay đã quá một ngàn năm, các linh tượng do Ấn Độ chế tác lưu truyền phong cách khắp đất Trung Hoa. Dẫu theo kinh điển đúc nên, chỉ cốt giống với sắc tướng. Danh sĩ nghệ nhân cố tranh tài thi thố, nhưng xem đi xét lại, vẫn chưa có tuyệt tác. Đến đời Tấn, Đái Qùy vốn ở nước Tiều, tự là An Đạo, chí hướng cao thượng, ẩn dật tại đất Ngô. Sống đời đạo lý, hâm mộ Phật pháp. Hơn nữa, tâm cơ minh mẫn, khéo léo tày Trời. Tìm tòi nghệ thuật miêu tả sống động, gần giống với chân thân của chư Phật, vẽ nên tượng đức Phật Vô Lượng Thọ cùng Bồ-tát thị giả tuyệt đẹp. Xong xuôi, ông núp sau màn, lắng nghe lời bình luận. Sau đó, gia công sửa chữa. Nét bút tận tình tận mỹ. Suốt đời Châu đời Tống chưa ai hơn được. Gom hết tâm tư nhuận sắc ba năm mới hoàn thành. Chấn động đương thời cho đến hôm nay. Thật chưa từng có. Người chiêm ngưỡng cảm thấy như gần gũi với pháp thân. Ít lâu sau, tượng được cung nghinh về chùa Linh bảo tại Sơn âm. Đạo đời tham quan đều phát tâm Bồ-đề. Khích Siêu ở Cao bình nghe tiếng, đến chiêm bái, thắp nhang phát nguyện rằng: “Nếu nhang cháy như thường, đệ tử lại xin đến chiêm bái Thánh nhan. Nếu không, đệ tử sẽ xin gặp lại khi đức Phật Di-lặc xuất thế!” Lạ thay, cây nhang trong tay bốc làn khói thơm thẳng lên mây, một phần tỏa ra ngào ngạt khắp đường. Mọi người đến xem đều hoan hỷ ngập lòng. Lâm xuyên Khang vương đời Tống soạn sách Tuyên-nghiệm-ký cũng có chép điềm linh dị này vào. Nhà ông cách chùa Linh bảo chỉ hơn trăm bước, nửa đêm thức giấc, từng thấy trên chùa có ánh hào quang sáng lòa. Cho là lửa cháy, ông vội vã chạy lên. Xóm làng cũng có người thấy, cùng tranh nhau đổ đến, nhưng cổng chùa vẫn đóng bình thường mới biết do tượng phóng hào quang. Sáng mai, mọi người hay tin, gọi chùa mở cổng vào xem, đều tận mắt chứng kiến điện Phật sáng láng rực rỡ, hào quang chiếu diệu tận Trời. Đại chúng trang nghiêm đảnh lễ, ca tụng phật lực uy linh không phân xứ sở. Vua Tống Văn đế từng cung nghinh tượng về nội cung thờ phụng. Tề Cao đế dựng chùa Chánh giác, muốn chọn linh tượng hiển hách nhất trấn giữ đại điện, đã rước tượng về chùa. Trong khoảng 10 năm, ông còn tạo năm pho hành tượng** tại chùa Ngõa quan. Con thứ hai của ông tên Ngung, tự Trọng nhược, ý tứ thâm trầm, ưa thú ẩn dật. Nuôi chí cao thượng, thừa kế tài hoa. Mỗi lần gặp cha vẽ tượng, thường cùng suy nghĩ góp ý. Giang Di ở Tế dương từ nhỏ kết bạn với Ngung, có nhờ vẽ giúp tượng Quán Thế Âm. Ngung dốc hết tâm chí, mong sao thật đẹp, nhưng vẽ hoài nhiều năm vẫn chưa thành. Sau đó mơ thấy người bảo: “Giang Di không có nhân duyên với tượng Quán Thế Âm, nên đổi sang tượng Bồ-tát Di-lặc.” Ngung liền dừng tay, gửi thư kể cho Giang Di hay. Thư chưa kịp đưa đi, tin tức của Giang Di đã đến. Thì ra đêm ấy, hai người cùng mơ thấy như nhau. Ngung mừng rỡ, chuyển qua vẽ tượng đức Di-lặc theo lời thần mộng. Vừa ra tay đã đẹp, không cần đến cấu tứ. Sắc tướng đầy đặn sáng láng, chỉ trong chốc lát là xong, được mọi người hết sức tán thưởng. Nhân duyên thật đúng chẳng sai. Tượng ấy lâu nay tôn trí ở chùa Long hoa tại Cối kê. Những tượng do hai cha con họ Đái sáng tác nổi tiếng đã mấy đời nay. Tác phẩm cũng rất nhiều, đa số tôn trí tại các chùa, không thể ghi chép hết.

3. Pháp sư Thích Đạo An ở chùa Ngũ Cấp tại Trường An đời Tấn vốn họ Vệ, nhười Phù liễu thuộc Thường sơn. Tướng mạo không bằng người nhưng thông minh không ai sánh kịp. Lên 7 tuổi, đọc sách lần thứ hai liền thuộc lòng. 13 tuổi xuất gia, mỗi ngày đọc hàng vạn chữ, không hề sai sót. Sư phụ nễ phục, cho thọ giới cụ túc và gửi đi học xa. Đến chùa trong hoàng cung tại Nghiệp thành tham kiến cao Tăng Phật-đồ-trừng. Cao Tăng khen là kỳ lạ, cùng nói chuyện suốt ngày. Nhân đó, tôn cao Tăng làm thầy. Mỗi lần cao Tăng giảng kinh, ngài đứng ra giải đáp. Bao nhiêu vấn nạn đều được giải đáp một cách dễ dàng. Đương thời có lời ca tụng rằng: “Đạo nhân mặt đen làm kinh hồn cử tọa.” Sau đó, tránh đất Nghiệp loạn lạc, ngài sang Tương dương, cùng các đệ tử như Tuệ Viễn, hơn bốn trăm người vượt sông. Đang đêm gặp trận mưa giông, cả đoàn đội tuyết bước đi, gặp căn nhà phía trong cửa đóng trụ buộc ngựa, lưng chừng treo giỏ cây đựng thức ăn ngựa, lớn khoảng một hộc. Ngài gọi to: “Lâm Bá Thăng!” Chủ nhân giật mình chạy ra. Quả đúng tên Lâm Bá Thăng. Cho rằng ngài là thần nhân nên chủ nhân tiếp đón rất trọng thể. Đệ tử hỏi: “Làm sao biết được họ tên?” Ngài đáp: “Hai cây là Lâm, giỏ đựng một hộc là Bá Thăng.”*** Khi đến Tương dương, gặp một pho tượng nước ngoài bằng đồng, hình dáng cổ lổ lạ lùng, nên đại chúng không sùng kính lắm. Ngài bảo: “Thân tượng rất đẹp, nhưng búi tóc chưa cân đối lắm.” Bèn sai đệ tử dũa bớt. Bỗng hào quang phát sáng khắp điện. Nhìn kỷ trong búi tóc, phát hiện ra một hạt xá-lợi. Đại chúng đều ăn năn bái phục. Ngài bảo: “Tượng hiển linh đến thế, không nên sửa lại nữa.” Những người biết chuyện đều nói ngài có thần lực thấy được xá-lợi, nên mới đưa ra cho đại chúng thêm kinh tín.

Bấy giờ, Tập Tạc Xỉ ở Tương dương có thiên tài hùng biện trùm cả đương thời, nghe danh tiếng của ngài, trước đây từng gửi thư thăm hỏi: “Đại sư nối dõi pháp đăng, chính để xiển dương chân lý. Từ tâm và giáo hóa rạng ngời, Đạo đời cùng được che chở. Hơn bốn trăm năm Đại đạo truyền sang đông độ, ngay vua chúa chư hầu cũng phát nguyện quy y, khiến giáo lý sớm được lưu hành khắp đất nước. Tuy nhiên, pháp vận biến thiên nên chúng sinh chưa được ngộ hết. Gần đây, mạch Đạo thanh hưng không gì sánh kịp. Đúng là điềm trăng rằm sắp sáng, cao Tăng sẽ xuất hiện vậy. Đại sư gánh vác trọng trách hóa sinh, không để tăm tối. Chư Tăng ở đây đều dốc lòng kính ngưỡng. Đại sư nếu có sang Đông, nguyện đem bảo châu soi sáng, bước lên pháp toà thất bảo, thị hiện pháp đăng quang minh, tưới cam lộ nhuần thấm cỏ cây, trồng chiên-đàn tươi tốt Giang tả. Được thế, Chánh pháp của đức Như lai lại được tôn sùng, triều âm hùng dũng lại vang dội khắp đời vậy.” Thư ấy còn dài, không chép ra hết. Khi Tập Tạc Xỉ nghe tin ngài sang, liền vào tận chổ tịnh tu thăm viếng. Vừa ngồi yên đã nói: “Tập Tạc Xỉ lừng danh bốn biển.” Ngài đáp lại: “Thích Đạo An danh tiếng vang Trời.” Đương thời cho là lời đối đáp tuyệt hay.

Ngài thường chú giải các kinh, sợ không đúng nghĩa, nên phát nguyện rằng: “Nếu lời bàn không xa diệu lý, xin cho thấy điềm lành.” Ngài mơ gặp vị đạo nhân người Ấn Độ, đầu bạc, lông mày thật dài bảo: “Ông chú thích kinh rất đúng. Ta chưa thể nhập Niết-bàn, hiện còn ở Tây Vức, sẽ sang đây đã thông giúp ông. Ngày ngày cứ dọn sẳn cơm!” Về sau, khi luật Thập-tụng truyền sang, ngài Tuệ Viễn mới biết người sư phụ mơ thấy trước đây chính là ngài Tân-đầu-lô. Do đó, thành lệ bày bàn dọn cơm cúng dường khắp nơi. Đạo hạnh của ngài xứng đáng là bậc tôn sư, kiến giải lại thông suốt Tam tạng. Ngài soạn những phép tắc dành cho Tăng ni và các hiến chương Phật pháp. Có thể chia làm ba loại: 1.Các phép tắc dâng hương, ngồi Thiền, tụng kinh và giảng pháp. 2.Các phép tắc hành Đạo, ăn uống và báo thời trong sáu thời hằng ngày. 3.Các phép tắc bố-tát, sai sử và sám hối. Mọi chùa chiền trong nước đều theo đó thực hành.

Ngài thường cùng các đệ tử như Pháp Ngộ đến trước tượng đức Phật Di-lặc lập thệ nguyện xin vãng sinh về cõi Trời Đâu-suất. Ngày hai mươi bảy tháng giêng năm Kiến nguyên thứ hai mươi mốt đời Tần, một vị Tăng lạ, hình dáng xấu xí tầm thường tới chùa xin nghỉ lại. Do phòng ốc chật hẹp nên được bố trí cho ở tại giảng đường. Bấy giờ, đệ tử Duy-na trực điện Phật, ban đêm phát giác vị Tăng này theo song cửa tự do ra vào, liền đem bẩm lên. Ngài giật mình thức dậy, đến vái chào xong, hỏi lý do lên chùa. Vị Tăng đáp: “Vì giúp nhau mà đến.” Ngài bảo: “Tự xét nghiệp chứng năng nề, làm sao có thể giải thoát nổi?” Vị Tăng ấy đáp: “Rất đáng giải thoát. Lễ tắm Phật sắp tới, hạnh nguyện chân thật của cao Tăng chắc chắn sẽ thành tựu!” Rồi chỉ dẫn tỉ mỉ nghi thức cử hành lễ Tắm Phật. Ngài hỏi kiếp sau sinh vào cõi nào. Vị Tăng ấy đưa tay vén gốc Trời phía Tây bắc. Mây lập tức mở ra, hiện rõ phước báo tuyệt diệu trên Trời Đâu-suất. Đêm ấy, đại chúng đông hằng mấy chục người cùng chứng kiến. Sau đó, ngài sắm sửa đồ tắm Phật. Có em bé phi phàm cùng mấy chục bạn bè chạy vào chùa nô đùa rồi đi tắm. Đúng là đức Phật ứng hiện. Ngày mồng tám tháng hai năm ấy, ngài bỗng nhiên bảo đại chúng: “Ta sắp đi đây!” Hôm ấy, sau khi thọ trai xong, ngài thanh thản viên tịch, không hề bệnh tật chút gì. An táng tại chùa Ngũ cấp trong kinh thành, nhằm niên hiệu Thái nguyên thứ mười đời Tấn, thọ được bảy mươi hai tuổi.

Trước đó, mỗi lần nghe tin ngài La-thập bên Tây Vức, ngài ao ước được cùng đàm đạo, thường khuyên vua Phù Kiên rước về. Ngài La-thập cũng nghe tiếng ngài, cho là vị Thánh nhân bên Trung Quốc, thường hướng sang đảnh lễ. Khi mới sinh, ngài rất bụ bẫm. Trên cánh tay trái có miếng da lớn chừng một tấc, lấy tay lật lên cao thấp được, nhưng không thể lột ra. Người đương thời gọi là Bồ-tát có ấn trên tay. Sau khi ngài viên tịch mười sáu năm, ngài La-thập mới sang. Không gặp được, ngài La-thập vô cùng xót xa ân hận. Suốt đời, ngài chuyên tâm hâm mộ kinh điển, dốc chí hoằng pháp. Những cao Tăng nước ngoài được mời sang như Đề-bà-Đàm-ma-nan-đề và Bạt-trừng dịch Đại tạng kinh được hơn trăm vạn lời. Ngài cùng Sa-môn Pháp Hoà minh định âm vị, xét kỹ nghiã văn, các kinh mới dịch nhờ thế đạt mức chính xác. Tôn Xước soạn sách Danh-đức-Sa-môn-luận nói rằng: “Ngài Thích Đạo An thông thái bác học, có tài hiểu thấu nghĩa lý văn từ.” Và làm bài tán như sau:

“Bao la vũ trụ,
Đa đoan học phái.
Uyên bác Đạo An,
Thông thái vạn loại.
Tiếng vang Lũng, Thiểm;
Danh đồn Hoài, Hải.
Người dẫu ra đi,
Phảng phất còn mãi!”

Có bút ký khác bảo rằng: “Đăc biệt ở đất Hà Bắc có Trúc Đạo An và Thích Đạo An cùng nổi tiếng ngang nhau.” Sách ấy còn bảo: “Tập Tạc Xỉ từng gửi thư thăm hỏi Trúc Đạo An.” Tuy nhiên, ngài Đạo An có thầy họ Trúc, sau đổi lại thành Thích. Người đời thấy hai họ nên cho là hai người khác nhau. Thật hết sức sai lầm (2 chuyện trên rút từ LươngCao-Tăng-truyện).

3. Ni cô Thích Tuệ Ngọc đời Tống vốn người Trường An, đạo hạnh tinh tiến, kinh điển và giới luật đều thông thạo. Thường thấy hào quang trằng hồng phóng lên ở chùa của thượng thư họ Tiết tại Trường an hơn 10 ngày. Vào ngày mồng tám tháng tư, Sa-môn chùa Lục trùng đến tham quan, phát hiện pho kim tượng đức Phật Di-lặc cao hơn một thước ngay chổ phát hào quang. Về sau, ni cô sang Nam, đến ở chùa Linh Thu tại Giang lăng. Vào đêm tháng mười năm Nguyên gia thứ mười bốn, thấy phía Đông chùa có ánh hào quang tía chiếu sáng khắp rừng, bèn đem kể lại cho đồng bạn Diệu Quang, nhưng chẳng phát hiện được gì. Hơn hai ngày, ni cô thường thấy điềm hào quang như thế. Về sau, trụ trì Thích Pháp Hoằng sửa soạn xây nền Thiền thất dưới gốc cây, ngước nhìn lên cành, phát hiện pho kim tượng ngồi, cũng cao chừng một thước (Chuyện trên rút từ Minh-tường-ký).

4. Trên núi thuộc thành Diễm thạch đời Lương có Sa-môn Thích Tăng Hộ vốn người Diễm thành tại Cối kê. Từ nhỏ xuất gia, đã quyết chí khổ hạnh, giữ gìn giới luật thanh tịnh, về sau, ngài ở chùa Linh nhạc trên núi thành Diễm thạch. Phía Bắc chùa là vách đá xanh, mọc thẳng đứng mấy chục trượng. Giữa như có hình hào quang toả sáng của đức Phật. Trên đỉnh, các chòm cây buông cành phủ xuống. Mỗi lần ngài đi tản bộ qua đây, thấy hào quang xán lạn, nghe tiếng tán bái, đàn sáo dặt dìu. Nhân thế, ngài bưng lò hương phát nguyện xẻ núi tạc pho tượng cao mười trượng và chân thân đức Di-lặc cao nghìn thước, ước mong chúng sinh hữu duyên sẽ được gặp gở ở Ba hội. Giữa niên hiệu Kiến nguyên, ngài kêu gọi đại chúng bắt đầu thi công. Hơn một năm mới thành hình nét mặt. Chẳng bao lâu, ngài lâm bệnh rồi viên tịch. Lúc lâm chung phát thệ rằng: “Công trình ta làm, không thể một đời lo nổi. Đến kiếp mai sau, nguyện vọng ắt sẽ hoàn thành.” Sau đó, Sa-môn Tăng Thục nối chí thực hiện, nhưng không có nguồn tài trợ nên cũng chưa xong. Đến năm Thiên giám thứ sáu đời Lương, huyện lịnh Thủy phong là Lục Hàm bị cách chức về nước, nghỉ đêm tại Diễm khê, gặp mưa gió sấm chớp, rất sợ hãi. Đang mơ màng, bỗng thấy 3 vị Tăng đi tới bảo rằng: “Nếu giữ lòng thành tín kiên trinh, tự nhiên sẽ được bình an. Điện hạ Kiến an mắc bệnh chưa khỏi, nếu chịu giúp Sa-môn Tăng Hộ tạc xong tượng đá, chắc chắn sẽ bình phục. Thần minh hiển hách quyết chẳng sai lời. Nên đi ngõ ý giúp. Họ Lục về kinh đô được một năm, quên mất điềm mộng. Sau đó, ra cửa, gặp vị Sa-môn bảo rằng: “Còn nhớ lời nhắn nhủ Kiến an vương vào đêm tá túc năm ngoái chăng?” Bấy giờ, họ Lục ngơ ngác đáp rằng: “Không nhớ.” Sa-môn tươi cười bảo: “Nên nhớ lại đi!” Nói xong, liền Từ biệt. Họ Lục biết là bậc phi phàm, vội vàng chạy theo hỏi rõ. Được hơn trăm bước, bỗng nhiên không thấy nữa. Họ Lục sực nhớ lại giấc mơ năm trước. Sa-môn ấy chính là vị Tăng thứ ba, bèn đem bẩm báo Kiến an vương. Vương lập tức tâu lên. Nhà vua ban sắc sai luật sư Tăng Hựu lo liệu việc tạc tượng. Kiến an vương vốn rất sùng Đạo, hoan hỷ vô cùng, cúng dường tiền của, nguyện Phật sự thành tựu viên mãn. Trước hôm luật sư đến, trù trì Tuệ Sinh mơ thấy vị thần nhân cao lớn mặc áo đen, kẻ hầu hạ rất hùng tráng, đứng trước khám thờ bàn bạc tính toán. Sáng mai, luật sư vừa lên đến nơi. Thật là linh ứng. Trước đây, Sa-môn Tăng Hộ tạc khám thờ cạn quá, phải tạc sâu thêm năm trượng và tạo thêm búi tóc. Khi tượng hoàn thành, mài bóng sắp xong, vào nữa đêm, bỗng dưng màu đỏ ở chữ vạn nổi bật lên. Đến nay, dù không hề sơn thếp, màu đỏ ấy vẫn còn. Phật sự bắt đầu từ mùa Xuân năm Thiên giám thứ mười hai đến mùa Xuân năm thứ mười lăm thì xong. Pho tượng ngồi cao năm trượng, pho đứng cao mười trượng. Phía trước dựng đài cao ba tầng cùng cổng, gác, điện Phật và các chổ hành lễ. Khách thập phương mang hương hoa tấp nập lên về cúng dường chật cả đường sá. Sau đó, bệnh tình Kiến an vương lành hẳn. Vương còn được cải phong về Nam bình (Chuyện trên rút từ Lương-cao-Tăng-truyện).

5. Sa-môn Thích Tăng Các ở Thiền định Đạo trường tại Trường an đời Tùy, vốn họ Lý, người Địch đạo thuộc Kim thành. Chí hướng cung kính siêng năng, chuyên tu Tịnh độ. Theo kinh Hoa-nghiêm, Sa-môn thực hành các phép quán Thế giới hải Liên hoa tạng và Thiên cung Di-lặc. Năm Khai hoàng thứ 17 đời Tùy, bị bệnh tắt hơi, chỉ còn vùng tim không lạnh, nên đồ đệ chưa dám tẫn liệm. Sau đó, tịnh lại, Sa-môn kể rằng: “Trước tiên gặp hai người, tay cầm văn thư, đứng trước cửa, bảo: “Quan trên muốn gặp đại sư.” Nhấp nháy liền đi theo họ, giống như cưỡi hư không, chân chẳng chạm vào đâu, đến một vườn lớn toàn cây thất bảo trang nghiêm như tranh vẽ. Hai người đưa tới nơi, liền Từ biệt lui ra, một mình ta đi vào. Bốn phía bao la, chỉ thấy rừng núi ao hồ đều bằng bảo vật rực rỡ chói mắt, không thể nhìn thẳng. Dưới gốc cây là toà sen, hoặc có người ngồi, hoặc còn để trống. Bỗng nhiên nghe tiếng gọi: “Phải Linh Cán người đến đây chăng?” Ta theo tiếng nói đến nơi, chính là pháp sư Tuệ Viễn. Hành lễ xong, ta hỏi: “Đây là nơi nào?” Pháp sư đáp: “Là cõi Trời Đâu-suất. Ta và Tăng Hựu cùng sinh lên đây. Vị ngồi trên bảo tọa cao kế ta là pháp sư Tăng Hựu đấy.” Hình dáng hai ngài đều không giống trước đây, đầu đội mũ Trời, mặc áo màu đỏ tía sáng láng tuyệt trần, chỉ còn tiếng nói như xưa, nên có thể nhận ra. Hai người còn bảo ta: “Nhà ngươi và các đệ tử của ta sau này đều sẽ sinh lên đây.” Nhờ được giác ngộ, Sa-môn càng siêng năng tu hành Tịnh độ, trang nghiêm quán tưởng, cách ly thế gian. Đến năm Tùy Đại nghiệp thứ ba, thành tựu công phu Thiền định, nhà vua ban sắc làm thượng tọa ở Đạo trường. Tăng đồ đông đảo, cơ duyên hóa độ rất có quy mô. Đến năm thứ tám, Sa-môn ở trong Thiền phòng, mang bệnh nặng dần, sắp sửa viên tịch. Tròng mắt cứ ngước lên, không nhìn vào ai, rất lâu mới hạ xuống, thần sắc vẫn bình thường. Đại sư Đồng Chân đến thăm được chứng kiến tướng lạ này. Sa-môn bảo: “ Vừa rồi, ta thấy hai Đồng tử mặc áo xanh đến mời, liền đi theo, tới phía ngoài thành Đâusuất, chưa được vào trong. Nếu nhón chân lên, mới nhìn thấy cây báu tán hoa trong thành. Nếu đứng bình thường, chẳng thấy gì cả. Khách tới thăm, đứng bên cạnh, thấy ta ngước mắt là vì thế.” Đại sư Đồng Chân bảo: “Nếu tôi được sinh lên cõi Trời ấy thì đã mãn nguyện.” Sa-môn bảo: “Phước báo trên Trời không lâu dài, cuối cùng vẫn đọa vào luân hồi sinh tử. Thế giới Hoa tạng mới là cứu cánh của ta.” Nói xong chẳng bao lâu, Sa-môn tắt hơi. Giây lát tỉnh lại. Đại sư Đồng Chân hỏi: “Thấy được gì thế?” Sa-môn đáp: “Thấy nước bao la khắp nơi, hoa lớn như vành xe. Ta ngồi lên trên đó. Nguyện vọng đã thành.” Nói xong, liền viên tịch, nhằm ngày hai mươi chín tháng giêng năm Tùy Đại nghiệp thứ tám, thọ bảy mươi tám tuổi.

6. Sa-môn Thích Thiện Trụ ở chùa Tịnh Ảnh tại Trường An đời Đường, vốn họ Hoài, người Doanh châu, thông minh dễ hiểu, lại giỏi đàm luận, nổi tiếng khắp nơi. Cuối niên hiệu Nhân thọ, vâng mệnh nhà vua dựng tháp và cung nghinh xá-lợi về chùa Hoa lâm trên núi Ngưu đầu thuộc Tử châu. Khi xe sắp tới nơi, gặp con heo rừng tám đầu xông ra dưới xe, đi theo đến nhà trạm. Đuổi thì bỏ chạy, xong lại đến như cũ. Sắp vào thành, có bốn con ong đen, khí thế rất hùng dũng, bay vần vũ quanh xe bốn vòng rồi tản đi. Ban đêm, tại nhà công quán, hào quang phát ra, chiếu sáng lên nóc như ánh lửa, được một lúc mới tắt. Lại nữa, khi đào nền tháp sâu hơn một trượng để đặt hòm xá-lợi, bắt gặp cái hũ xưa không nắp, có nước trong trẻo thơm tho, bèn cất vào hòm. Chùa có tháp cao chín tầng. Hào quang phát ra từ góc Tây nam tầng thứ hai, chiếu thành vòng tròn lớn bằng cái lu đựng năm tạ, sắc vàng rực như lửa, một hồi lâu mới tan. Từ mày tượng đức Phật Di-lặc trên điện cũng phóng hào quang tía. Tượng hai vị Bồ-tát cũng phóng hào quang đỏ, chiếu sáng khắp chùa. Trước sau bảy lần, mọi người đều chứng kiến. Vào tháng tám năm Vũ Đức thứ ba, Sa-môn viên tịch tại chùa Tịnh Anh, thọ bảy mươi mốt tuổi (2 chuyện trên rút từ Đường-cao-Tăng-truyện).

/72
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây