Pháp Uyển Châu Lâm

Giới thiệu bộ "Pháp uyển châu lâm"

Pháp uyển châu lâm một trăm quyển do pháp sư Đạo Thế tự Huyền Uẩn soạn vào đời Đường, Trung Quốc, Thị lang Lí Nghiễm viết tựa. Sách đã được ban Dịch thuật Pháp Âm chuyển sang tiếng Việt và xuất bản vào năm 2011, gồm bảy tập. Trải qua bảy năm lưu thông, năm nay theo nhu cầu của người đọc, ban Dịch thuật đã cho tái bản có sửa chữa và gom lại thành 5 tập với khổ lớn hơn.

 

Chương 57: Quyển 19 - Thiên thứ 8: Kính Tăng - Thứ tư: Phần Tội Lỗi Do Bất Kính

Thứ tư: PHẦN TỘI LỖI DO BẤT KÍNH

Như kinh Tượng-Pháp-Quyết-Nghi nói: “Thậm chí, tất cả mọi người phàm, không kể sang hèn, đều không được đánh đập nô tì, gia súc của Tam Bảo, không được thọ nhận lễ bái của nô tì tam bảo, nếu cố ý vi phạm, sẽ mang tội lổi”. Do đó, kinh Tát-già-ni-kiền nói rằng: “Nếu phá hoại tháp, chùa hoặc lấy cắp đồ vật của Phật, hoặc bắt làm trò giúp vui, hoặc gặp Sa-môn mặc pháp phục, dù giữ giới hay phá giới, nếu bắt giam giữ, đánh đập, trói buộc, bắt hoàn tục hay giết chết, đều phạm tội trọng căn bản, chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.

Trong nước xảy ra tội này, các vị hiền Thánh sẽ bỏ ra đi, các thiên thần sẽ không hộ vệ nữa, các lãnh chúa sẽ xâu xé, nổi loạn khắp bốn phương. Hạn hán, lụt lội sẽ thất thường, gió mưa sẽ không đúng tiết. Nhân dân sẽ bị đói khát, trộm cướp sẽ tung hoành khắp nơi. Bệnh dịch sẽ gây ra chết chóc nhiều vô số. Dẫu thế, đã không biết do mình gây nên tội lổi, lại còn oán trách Trời cao!”

Lại nữa, kinh Nhân-Vương nói: “Quốc vương và đại thần cậy Thế tôn quý, ra tay phá hoại chánh pháp của ta, đặt ra phép tắc khống chế đệ tử của ta, không cho xuất gia, không cho đúc tạc tượng Phật, đặt quan chức thâu tóm đất đai của Tăng ni, đưa các cư sĩ ngồi trên Tăng Ni! Hơn nữa, Quốc vương và đại thần còn ngang nhiên đặt ra thể chế không đúng với Phật pháp, nhằm phá hoại chư Tăng, đặt quan lại cai quản, kiểm soát chư Tăng, khống chế chư Tăng, khiến cho Phật pháp không được tồn tại lâu dài”.

Lại nữa, kinh Đại-tập nói: “Đức Phật bảo, mọi chúng-sinh hiện tại và mai sau cần tin tưởng sâu sắc Tam bảo, vì sẽ được thọ hưởng phước báo tốt đẹp nhất trong cõi Trời người. Tương lai không xa, sẽ được nhập vào cõi Niết-bàn. Thậm chí cúng dường một người xuất gia theo ta, hoặc cắt tóc cạo râu, mặc áo cà-sa xuất gia theo ta, nhưng không thọ giới, cũng sẽ được hưởng phước báo, thậm chí cũng sẽ được nhập vào cõi Niết-bàn. Vì thế, ta mới nói rằng, nếu có người xuất gia theo ta, dù không giữ giới, nhưng đã cắt tóc cạo râu, mặc áo cà-sa, nếu vô cớ làm hại, hành hạ người này, chính là phá hoại pháp thân và báo thân của chư Phật ba đời, thậm chí làm Tăng trưởng dẫy đầy ba đường ác. Đức Phật nói rõ, nếu có người xuất gia theo ta, cắt tóc cạo râu, mặc áo cà-sa, dù không giữ giới, người ấy cũng đã được ấn chứng Niết-bàn rồi. Nếu có kẻ vô cớ phá hoại nhục mạ, chê bai, dùng dao gậy trói đánh, chém giết, hoặc đoạt y bát hay đồ ăn thức uống của người này, kẻ ấy phá hoại pháp thân và báo thân của chư Phật ba đời, đã chọc mắt của tất cả chư Thiên, làm mai một mầm mống chánh pháp Tam bảo của chư Phật, khiến tất cả Trời người đều không được lợi ích, bị đọa vào địa ngục và làm Tăng trưởng dẫy đầy ba đường ác.

Bấy giờ, vua của thế giới Ta-bà là Đại-phạm Thiên vương bạch đức Phật rằng: “Có người xuất gia theo đức Phật, cắt tóc cạo râu, mặc áo cà-sa, hoặc không thọ giới, hoặc phá giới, nếu nhà vua phá hoại, nhục mạ, trói đánh, sẽ chịu bao nhiêu tội?” Đức Phật bảo: “Đại phạm! Bây giờ ta sẽ nói sơ lược cho nghe. Nếu có kẻ đánh xuất huyết hàng vạn ức chư Phật, thử hỏi tội của kẻ ấy có nhiều chăng?” Đại-phạm Thiên vương thưa rằng: “Nếu có kẻ chỉ đánh xuất huyết một đức Phật, sẽ mắc tội nhiều không thể tính nổi, sẽ bị đọa vào đại địa ngục vô gián, huống gì đánh xuất huyết hàng vạn ức chư Phật! Ngoại trừ đức Phật, không ai có thể nói rõ quả báo tội lổi của kẻ ấy. Đức Phật bảo: “Đại Phạm! Nếu có kẻ hành hạ, nhục mạ, trói đánh người xuất gia theo ta, cắt tóc cạo râu mặc áo cà-sa dù không giữ giới hay phá giới, sẽ mắc tội nhiều hơn kẻ kia. Bởi vì người này có thể chỉ dẫn phép giải thoát cho cả chư Thiên, người này đã ở trong Tam bảo, có đức tin hơn tất cả chín mươi lăm hàng ngũ ngoại đạo. Người này có thể nhanh chóng nhập Niết-bàn hơn cả mọi cư sĩ, trừ những tu sĩ tu phép nhẫn nhục. Do đó, tất cả Trời người đều phải đến cúng dường. Huống chi người đã giữ gìn đầy đủ giới cấm, ba nghiệp đều thanh tịnh? Mọi Quốc vương, đại thần, pháp quan thấy có người xuất gia theo ta, tạo các tội lớn như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, chỉ nên trục xuất khỏi nước, không cho phép ở chùa sinh hoạt cùng chư Tăng, không được đánh đập, nhục mạ, làm tội. Nếu cố ý vi phạm, sẽ không được giải thoát, sẽ bị đọa vào đường súc sinh thấp kém, xa hẳn mọi đường Trời người tốt lành và chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục A-Tỳ. Huống chi đánh đập những người theo ta, giữ gìn đầy đủ giới luật?”

Lại nữa, kinh Thập-luân nói: “Đức Phật bảo: “Các thân thích! Có bốn loại Tăng:

1- Là Tăng đệ nhất nghĩa, 2- Là Tăng thanh tịnh. 3- Là Tăng dê câm, 4- Là Tăng đáng xấu hổ.

Sao gọi là Tăng đệ nhất nghĩa? Chư Phật, Bồ-tát, Bích-chi và bốn loại Sa-môn chứng quả. Tất cả 7 bậc này gọi là Tăng đệ nhất nghĩa. Các cư sĩ tại gia chứng Thánh quả cũng gọi là Tăng đệ nhất nghĩa. Sao gọi là Tăng thanh tịnh?

Những người biết giữ giới cụ túc gọi là Tăng thanh tịnh. Sao gọi là Tăng dê câm?

Những người không biết phạm hay không phạm các tội lớn nhỏ có thể sám hối được, ngu si vi ám độn, không biết thân gần các bậc thiện tri thức, không biết hỏi han nghĩa lý sâu xa đã đúng hay chưa, gọi là Tăng dê câm. Sao gọi là Tăng không biết xấu hổ?

Những người vì sinh kế, tìm vào cửa Phật, phạm đủ mọi giới, phá hoại lục hòa, không sợ quả báo, buông thả lục tình, ham mê vật chất. Những kẻ ấy gọi là Tăng không biết xấu hổ”.

Lại nữa, kinh Đại-bi nói: “Đức Phật bảo A-nan, trong giáo pháp của ta có những Sa-môn đã làm ô uế phạm hạnh, nhưng vẫn tự xưng là Sa-môn, mang dáng dấp Sa-môn, mặc phẩm phục Sa-môn. Trong Hiền kiếp này có hàng nghìn đức Phật, đứng đầu là đức Phật Di-lặc, cuối cùng là đức Phật Lô-xá-na. Các Sa-môn ấy cũng sẽ lần lượt nhập Niếtbàn Vô dư trong hiền kiếp nghìn Phật ấy. Vì các Sa-môn ấy dầu chỉ một lần niệm danh hiệu đức Phật, một lần sinh tín tâm, nhưng đã tạo ra công đức có lợi ích thật sự. A-nan! Ta đem Phật trí xem xét khắp pháp giới, đâu đâu cũng đều biết rõ. A-nan! Tạo nghiệp trắng có quả báo trắng; tạo nghiệp đen chịu quả báo đen. Nếu chúng-sinh nào giữ lòng thanh tịnh niệm nam mô Phật, nhờ vào thiện căn này, nhất định sẽ được gần gũi Niết-bàn, huống gì gặp được đức Phật và thành kính cúng dường?”

Lại nữa, kinh Thập-luân nói: “Đức Phật bảo, nếu có các Tỳ-kheo xuất gia theo Phật pháp, tất cả Trời người, A-tu-la đều phải cúng dường. Nếu có Tỳ-kheo giữ gìn giới luật, không được đánh phạt, trói cột, chặt đứt chân tay hay giết chết. Nếu có Tỳ-kheo phá giới, tệ hại như ung nhọt vỡ mủ, không có phạm hạnh mà vẫn nói có, bị mọi phiền não cấu kết phá hại, thối thất tiêu tan Thánh quả, nhưng Tỳ-kheo ấy vẫn còn có thể giáo hóa tất cả các loài Rồng, người, A-tu-la, nhờ có tiềm tàng vô lượng công đức quý báu. Thế nên những kẻ xuất gia theo ta, hoặc giữ giới, hoặc Phá giới, ta đều không cho phép các Quốc vương và đại thần trách phạt, trói buộc lại đánh đập, chặt đứt, chân tay, thậm chí giết chết, huống gì chỉ phạm những tội nhỏ nhặt như làm mất mát uy nghi? Tỳ-kheo phá giới, dù đã chết đi, nhưng vẫn còn uy lực của giới luật giống như ngưu hoàng, tuy bò đã chết đi, người ta vẫn tím kiếm lấy ra cho được, hoặc giống như xạ hương, sau khi chồn chết, vẫn đem lại lợi ích cho mọi người. Tỳ-kheo vô hạnh, tuy phạm giới cấm, nhưng uy lực của giới luật vẫn còn đem lại lợi ích cho vô lượng Trời người. Giống như đốt nhang, tuy thân nhang đã hết, nhưng mùi hương vẫn còn thơm ngát mọi người. Tỳ-kheo phá giới cũng thế, tuy bị đọa vào đường ác, nhưng đã làm cho chúng-sinh Tăng trưởng thiện căn. Bởi thế, mọi kẻ thế gian không được chê bái khinh rẻ các Tỳ-kheo phá giới, trái lại, phải bảo vệ, tôn trọng, cúng dường. Ta không cho phép trách phạt, trói buộc, thậm chí cướp mất sinh mạng. Bấy giờ, đức Phật nói kệ rằng:

“Hoa chiêm-bặc tuy héo
Vẫn hơn các hoa khác.
Các Tỳ-kheo phá giới
Vẫn hơn bọn ngoại đạo.

Lại nữa, trong kinh Đại-tập, đức Phật nói kệ rằng:

“Cắt tóc mặc cà-sa
Giữ giới hay phá giới
Trời người nên cúng dường.
Đừng để phải thiếu thốn.
Cúng dường Tỳ-kheo ấy,
Chính là cúng dường ta!
Nếu vì kính Tam bảo,
Quy y và cắt tóc,
Thân mặc áo cà-sa,
Đấy chính là con ta.
Mặc dù đã phá giới,
Vẫn còn chưa thối thất.
Nếu ai đánh đập họ,
Chính là đánh đập ta!
Nếu ai nhục mạ họ,
Chính là nhục mạ ta!
Kẻ ấy tâm dù mất,
Chánh pháp vẫn sáng lòa.
Vì của tiền xâu xé,
Vua chúa cũng vẫn xa!

Lại nữa, kinh Thập luân nói: “Giống như ngày xưa có vị quân vương tên Phúc Đức, gặp tội nhân bị trói, không muốn tự tay giết chết, ra lệnh đưa đến cho con voi hung dữ. Voi liền chụp lấy hai chân toan quật xuống đất, nhưng thấy tội nhân mặc áo cà-sa hoại sắc, bèn từ từ thả ra, không dám làm hại. Rồi voi ngồi xổm, lấy vòi liếm chân tội nhân, tỏ vẻ thương xót. Thân thích! Voi là súc sinh, thấy người mặc áo cà-sa, còn không nhẫn tâm giết chết, sau này, sẽ có quân vương chiênđà-la, thấy người xuất gia theo ta, có thể trở thành Sa-môn, dù chân chính hay không, liền hành hạ hay cướp đoạt sinh mạng. Khi chết, quân vương ấy chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ.” Tụng rằng:

“Tẩn bộ dưới gốc cây,
Cầu đạo chí hăng say.
Chứng được thần thông lực,
Chống gậy cưỡi rồng mây.
Chong đèn phát đại nguyện,
Diệu chỉ chẳng gì tày!
Không ham muốn kiếp thọ,
Chẳng quản sống vài giây.

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG:

Thuật sơ lược 10 chuyện linh nghiệm:

  1. Sa-môn Thích Đàm Thủy đời Ngụy.

  2. Sa-môn Thích Đạo Khai đời Tấn.

  3. Tư không Hà Sung đời Tấn.

  4. Thánh Tăng ở Thất lãnh thuộc Lô Sơn đời Tấn.

  5. Sa-môn Thích Tăng Lãng đời Tấn.

  6. Sa-môn Thích Pháp Tướng đời Tấn,

  7. Sa-môn Thích Pháp An đời Tấn.

  8. Sa-môn Thích Tuệ Toàn đời Tống.

  9. Sa-môn Thích Tuệ Minh đời Tề.

  10. Thánh Tăng ở các núi non của Trung Quốc.

1. Đời vua Thái Vũ (2-39) nhà tiền Ngụy (Bắc ngụy), Sa-môn Đàm Thủy có nhiều điều thần dị. Ngài thường ngồi, không nằm, hơn năm mươi năm, chân không đụng đến dép. Đi trong sình lầy, rút chân lên liền sạch sẽ, trắng tinh như da mặt, nên đời thường gọi là ngài chân trắng như lụa. Khi Hách Liên xương thắng trận, chiêm được Trường An, vì không tin Phật pháp nên ra lệnh giết hại Tăng ni. Ngài bị hành hình hằng dao kiếm, nhưng không bị thương. Bọn Tăng thấy thế, đâm ra hoảng sợ, bãi bỏ lệnh tàn sát. Nhờ ngài Tăng ni thoát chết rất đông. Vua Thái Vũ tỏ lòng kính trọng ngài. Sau ngài viên tịch hơn 10 năm, thần sắc vẫn không hề thay đổi.

2. Đời Tây Tấn, Sa-môn Thích đạo Khai, vốn người Đôn Hoàng, tu hành trên núi, ăn đọt tùng non suốt 30 năm. Sau chỉ ăn toàn sỏi nhỏ. Ngài đi bộ nhanh như bay, không thích lạc thú thế gian, chuyên ẩn tu ở núi Bảo Phúc. Khi Thạch Hổ (33-38) (nhà Hậu Triệu) cầm quyền, ngài đi từ Tây Bình đến. Nghiệp quận, vượt bảy trăm dặm bằng chân, dạo quanh xóm làng, cứu tế những kẻ khốn cùng, chi xẻ tiền bạc kiếm được. Cuối đời Thạch Hổ, ngài cùng đệ tử đến lại Kiến Nghiệp, vào phía Nam núi La Phù, rồi ngài viên tịch trong thảo am tại đó. Giữa niên hiệu Hưng Ninh (đời Đông Tấn), Viên Ngạn Bác có lên đây chiêm bái di thân của ngài.

3. Tư không Hà Sung (có chổ chép là Nhược) có đức tin từ thuở nhỏ. Lập nên pháp tòa ở Tinh xá để chờ đón Thánh thần suốt mấy năm. Bấy giờ, ông mở pháp hội tại nhà, trong đạo ngoài đời đến tham dự rất đông. Trong số đó, có một vị Tăng mặt mày quần áo lem luốc dơ bẩn, tướng mạo lùn ngắn, xấu xí. Vị Tăng bước lên pháp tọa, chắp tay ngồi yên. Đại chúng lấy làm lạ, cho là ngớ nhẩn, Hà Sung cũng tỏ vẻ bực dọc. Đến trưa, vị Tăng cũng thọ trai trên ấy. Xong xuối xách bát bước ra khỏi nhà, quay đầu lại bảo Hà Sung: “Tinh tiến đón chờ có vất vả lắm không? Dứt lời, liệng bát giữa không trung rồi vút mình bay đi mất. Hà Sung cùng đại chúng đưa mắt nhìn theo tận chân Trời, lòng ân hậ nhưng vô cùng, bèn dập đầu sám hối trọn cả tuần. (3 chuyện trên đây rút từ Lương-Cao-Tăng-Truyện).

Bảy ngọn núi ở Lô sơn cùng tụ hội tại phía Đông, tạo thành đỉnh cao vút, sườn núi cheo leo hiểm trở, chẳng ai dám leo lên. Giữa niên hiệu Thái Nguyên (376-39) đời Đông Tấn, thái thú quân Dự chương là Phạm Ninh sửa soạn xây trường học, sai người lên núi đốn cây, thấy có người mặc áo Sa-môn, bay vút lên giữa hư-không rồi đáp xuống trên đỉnh núi. Một hồi lâu, mới theo mây biến mất. Bấy giờ, có mấy người đi hái thuốc cùng đứng nhìn. Vì thế, các văn nhân đương thời lấy chuyện này làm cảm hứng để sáng tác, như bài Phú Lô sơn của Sa-môn Thích Đàm Đế có câu:

“Cưỡi mây hiện xuống non cao,
Rồi theo sương khói tan vào hư không”.

4. Đời Tấn, Sa-môn Trúc Tăng Lãng giữ gìn giới luật nghiêm minh, trong và ngài nước đều kính ngưỡng. Có lần ngài cũng vài pháp lữ được tín chủ mời đến nhà hành lễ. Đi được nửa đường, ngài bỗng nói: “Hình như có kẻ trộm đang lấy áo quần đồ đạc của các huynh đệ để ở chùa. Các pháp lữ cấp tốc trở về, quả đúng như thế. Giữa niên hiệu Thái Nguyên, ngài khởi công xây dựng chùa chiền trong hang Kim dư thuộc huyện phụng cao. Về già, vua Phù Kiên nhà Tiền Tần (37-38) đâm ra bài trừ chư Tăng, nhưng không dám xâm phạm đến ngài và các đệ tử, vì quá kính trọng đạo hạnh, Đương thời, trong đạo ngoài đời đều ngưỡng mộ ngài, mỗi khi có tín chủ lên chùa, số lượng bao nhiêu, ngài điều biết trước, nên sai đệ tử chuẩn bị đầy đủ. Thường đúng như lời ngài đã cho hay. Lâu nay, hang núi ấy có nhiều cọp dữ làm hại người. Từ khi ngài đến lập chùa. Cọp trở nên hiền lành như gia súc. Về sau, vua Tiên tỳ Mộ Dung Đức nhà Nam Yên (398-bốn trăm) cho thâu thuế hai huyện này đem về triều chi dụng Hiện nay, người ta gọi hạng ấy là hang Lãng công.

5. Đời Tấn, Sa-môn Thích Pháp Tướng người ở Hà đông, thường tu khổ hạnh một mình trên núi. Chim chóc tụ tập chung quanh, thân thiết như thú nhà. Thần niếu trên núi Thái sơn có rương lớn bằng đá đựng tiền bạc châu báu. Ngài nhân đi qua, đêm ghé vào ngủ nhờ, gặp một người mặc áo đen, đội mũ võ quan, sai quan mở rương. Nói xong, người ấy biến mất. Rương đá ấy vốn nặng hơn mấy vạn cân. Ngài thử giở nắp lên, bỗng nhiên mở ra thật nhẹ nhàng, bèn lấy tiền của châu báu đem phân phát cho người nghèo, về sau, ngài sang Giang nam, ở tại chùa. Việt Thành và đi vân du khắp nơi, làm trò ca hát khôi hài. Có lúc cởi trần chọc tức bọn quyền quý. Trấn bắc tướng quân Tư Mã Điềm ghét ngài không chịu giữ lễ nghi, sai người mời đến, bắt uống rượu độc. Ngài uống trọn ba chén nhưng thần sắc vẫn tươi tỉnh như thường. Cuối niên hiệu Nguyên Hưng, ở tuổi tám mươi chín, ngài mới viên tịch.

6. Đời Tấn, Sa-môn, Thích Pháp An là đệ tử của Pháp Sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn, cuối niên hiệu Nghĩa Hy (0-18) đời An Đế, huyện Dương tân bị nạn cọp dữ hoành hành. Trong huyện có miếu thờ thổ thần rất lớn nằm dưới tàn cây cổ thụ. Dân chúng chia nhau ở hai bên, đông đến hàng trăm. Gặp nạn cọp bắt, mỗi đêm chết khoảng một hai người. Ngài từng vân du qua đây, chiều tối vào làng xin ngủ nhờ. Vì sợ cọp. Dân làng đóng cổng rất sớm, lại không biết ngài, nên không cho vào. Ngài đi thẳng đến gốc cây, ngồi thiền suốt đêm. Gần sáng, cọp cõng người chạy đến, liệng xuống phía bắc. Gặp ngài, cọp nhảy lên như mừng rỡ và nằm mẹp xuống trước mặt. Ngài bắt đầu giảng dạy và truyền giới luật, cọp ngồi xổm một lúc rồi bỏ đi. Chờ Trời sáng hẳn, dân làng mới xúm nhau đi tìm người chết. Đến dưới gốc cây, thấy ngài điềm nhiên tịnh tọa, hết sức kinh dị, cho là thần nhân nên không bị cọp làm hại. Từ đó, dân làng hết nạn cọp dữ. Mọi người càng nên kính tin. Dân chúng toàn huyện hầu như đều phụng thờ Phật pháp. Sau đó, ngài muốn vẽ tượng Phật lên vách núi, nhưng không kiếm ra màu xanh da Trời, muốn dùng màu xanh đồng, nhưng cũng không có đồng. Thao thức mãi, đêm nằm mơ thấy người đi quanh quẩn trước Thiền sàng, bảo rằng: “Dưới chổ này có cặp chén bằng đồng, nên đào lên mà dùng”. Sáng mai ngài đào thử, liền gặp. Nhờ thế tượng được hoàn thành. Khi Pháp Sư Tuệ Viễn đúc tượng, ngài đưa một chén góp phần công đức, còn lại một chén Thái Thú quận Vũ Xương là Hùng Vô Hoạn mượn xem rồi chiếm luôn, không trả lại.

7. Đời vua Tống Hiếu Minh, Sa-môn Tuệ Viễn ở chùa Trường Sa tại quận Giang Lăng, vốn tên Hoàng Thiên, là đệ tử của thiền sư Tuệ Ấn. Thiền Sư Tuệ Ấn nhập định, thường thấy Sa-môn từng làm thầy của mình trong tiền kiếp. Dù Sa-môn đã già, nhưng vẫn thế độ cho làm đệ tử. Sau đó, Sa-môn ở nhờ họ Dương tại Giang Lăng để tu phép định. Ban-châu rất tinh tiến. Hơn một năm, chứng được khá nhiều kỳ bí. Trong một ngày, Sa-môn thấy rõ hậu thân đến mười lần, nhưng vẫn an nhiên thực hành phép ban-châu. Sa-môn biết trước ngày viên tịch. Đúng kỳ Sa-môn thanh thản ra đi. Sau đó rất lâu, Sa-môn hiện ra, bảo Sa-môn Đàm Tuân ở chùa Đa Bảo rằng: “Ngày hai mươi ba tháng hai sang năm, ta sẽ cùng chư Thiên đến đón”. Nói xong liền biến mất. Đúng hôm ấy năm sau, Sa-môn Đàm Tuân mở pháp hội rất lớn, bày trai lễ giả từ. Khi cảm thấy trong người bất thường, Sa-môn biết sắp sửa mệnh chung. Vào khoảng canh ba, giữa không trung có tiếng âm nhạc và mùi hương thật lạ lùng. Sa-môn bảo: “cái hẹn của ngài Tuệ Viễn đã đến”. Vừa dứt lời, Sa-môn liền viên tịch.

8. Đời Tống, Sa-môn Thích Tuệ Toàn là Thiền Sư ở Lương Châu. Ngài giáo hóa môn đồ đông đến năm trăm người. Trong đó, có một đệ tử tính tình hơi thô bạo, không được ngài lưu ý. Sau đó, bỗng nhiên đệ tử ấy buột miệng nói đã chứng được quả tam đạo. Ngài vẫn cho là hạng vô hạnh, nên không tin lời và ấn chứng dùm. Khi ngài lâm bệnh, đệ tử ấy đang đêm vào phòng vấn an dù cửa đã đóng kín. Ngài rất lấy làm lạ, muốn thử một lần nữa, bèn dặn đệ tử ấy đêm mai sẽ đến. Rồi ngài đóng chặt cửa, gài then thật kỹ. Nữa đêm hôm sau, đệ tử ấy vẫn ung dung bước vào, đến trước Thiền sàng thưa rằng: “Xin sư phụ chứng cho con đã đến đúng hẹn!” Rồi nói tiếp: “Khi sư phụ viên tịch, sẽ sinh vào nhà Bà-la-môn”. Ngài bảo rằng: “Ta ngồi thiền đã lâu năm, lẽ nào lại sinh vào chổ đó?” Đệ tử ấy đáp: “Sư phụ không tin tưởng tuyệt đối vào đạo, lại chưa bỏ hẳn ngoại giáo. Dẫu có phước đức, cũng không thể siêu thăng, nếu chịu mở pháp hội lớn, cúng dường một vị giải thoát, may ra thành tựu đạo quả”. Sa-môn nghe lời, mở pháp hội lớn. Đệ tử ấy dặn thêm: “Nên đem ca-sa cúng dường. Nếu có ai xin, đừng câu nệ tuổi tác lớn nhỏ”. Pháp hội hoàn thành, đến lượt cúng dường cà-sa, có một Sa-di bước đến xin nhận. Ngài thấy là đệ tử ở chùa, liền bảo: “Ta muốn cúng dường cho vị Thánh Tăng, không thể cho ngươi”. Chợt nhớ lại lời dặn đừng câu chấp tuổi tác lớn nhỏ trong đây, ngài bèn hoan hỷ giao cho Sa-di ấy. Một hôm gặp lại Sa-di, ngài hỏi: “Áo hôm trước có rộng lắm không?” Sa-di đáp: “Chẳng phải đệ tử không đáng nhận áo đâu, chỉ vì lý do riêng, cảm thấy xấu hổ nên không tham dự pháp hội mà thôi”. Bấy giờ ngài mới hiểu rằng vị Thánh Tăng đã hóa thân thành Sa-di ấy. Sau đó, đệ tử ấy mạng chung, không xảy ra điều linh dị nào, ngoại trừ bốn phía mộ thỉnh thoảng phát ra hào quang trắng bạch. Đến niên hiệu Nguyên Gia thứ hai mươi (3), ngài vẫn còn sống ở vùng Tửu Tuyền.

(6 chuyện trên rút từ Minh-tường-ký).

9. Đời Tề, tại núi Xích Thành thuộc huyện Thủy Phong có Samôn Thích Tuệ Minh vốn người Khang-cư. Tổ Tiên chạy loạn sang Đông ngô, cư trú trong thạch thất tại núi Xích Thành. Ngài chuyên tâm thiền định, hình dáng khô gầy. Sau đó, trong khi nhập định sâu xa, ngài thấy một thần nữ tự xưng là lão bà, nói rằng: “Ta sẽ luôn luôn che chở giúp cho”. Thỉnh thoảng có vượn trắng, hươu trắng, cọp trắng và rắn trắng lân la trong thềm rất hiền lành, không gây sợ hãi. Cánh Lăng vương nghe tiếng rất ngưỡng mộ, trong sau phái ba người lên mời, ngài mới xuống núi, đến thăm vương phủ ở kinh đô. Vương nghinh tiếp cung kính, theo lễ thầy trò. Được một lát, ngài Từ biệt xin về.Vương năn nỉ, ngài cũng không chịu ở lại , đành bày lễ vật cúng dường và phái người đưa về núi. Ngài viên tịch vào cuối niên hiệu Kiến Vũ (9-97), thọ bảy mươi tuổi.

10. Cung chiêm các chùa chiền trên núi, các hang động thạch thất khắp non nước Trung Quốc, có nhiều chùa linh thiêng do các Thánh Tăng tu tập, được các vị hành giả phát hiện. Nay chỉ thuật lại năm ba chuyện có bằng chứng xác thật. Số còn lại rất nhiều, không thể ghi chép hết.

– Xưa kia, vào đầu niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn, Sa-môn Trúc Đàm Du, người Đôn Hoàng, chuyên hành Thiền và đi khất thực, khi ngài đang vân du ở núi xích thành tại huyện Diễm thuộc đất cối kê, gặp bầy cọp xông đến, ngài bình tâm thuyết pháp, có một con lăn ra ngủ say, ngài lấy gậy như ý gõ lên đầu kêu tỉnh dậy. Lại có con rắn lớn mười ôm quấn quanh mình, ngài vẫn thản nhiên không chút sợ hãi. Thần núi cũng xin cúng dường nhà để ngài lập chùa. Sau đó ngài tịnh tọa trên núi Xích Thành. Núi này tiếp giáp với núi Thiên Thai đầy suối thác và núi Tứ Minh. Các phụ lão nói núi Thiên Thai có chùa thần, ngài bèn đi tìm. Có cầu đá bắc qua khe sâu, rêu xanh trơn trợt, không thể đi được. Đá mọc chắn đường, không tài nào cất bước tiến tới. Ngài đành ngủ tại đầu cầu suốt một tuần, bỗng nghe bên kia văng vẳng có tiếng đọc tụng giới luật, bèn cố gắng tịnh tâm. Thình lình, tảng đá chắn lối tự nhiên mở ra, ngài lập tức bước tới, thấy toàn Tinh xá, nhiều vị Thánh Tăng đang thắp nhang, khi ngài thọ ngọ trai xong, các Thánh Tăng bảo rằng: “Sau 10 năm nữa, tự nhiên sẽ lên đây”.

– Đời Tề, Sa-môn Viên Thông ở chùa Đại Trang Nghiêm vùng Nghiệp hạ được một vị thần Tăng đến nghe thuyết pháp suốt mùa an cư. Ngày xuất hạ, thần Tăng nào Từ biệt, nói mình ở chùa Trúc Lâm và mời Sa-môn sang chơi. Sa-môn hỏi han đường sá. Qua năm sau bèn đi sang thăm, núi ấy nằm phía Tây bắc đất Nghiệp. Thần Tăng ra nghinh đón. Chùa chiền mở cửa rộng rải, thông thoáng, phòng ốc trang nghiêm. Sa-môn ở chơi, đàm đạo hợp ý, nên muốn xin ở lại hẳn. Thần Tăng vào bẩm lên Hòa thượng. Hòa thượng không chấp thuận, Sa-môn đành trở về. Đi hơn 3 dặm, Sa-môn quay đầu nhìn lại, chẳng thấy gì nữa. Những người lên tìm sau này cũng không biết chổ nào.

– Gần châu Nghiệp có vị Sa-môn tên Đạo cần đi lên phía bắc, đứng dựa sườn nùi tìm tòi, thấy bốn phía chung quanh hiện rõ cảnh chùa. Mọi thứ đều đủ, nhưng không có người. Sa-môn bước xuống xem xét, bỗng lạc mất đường, bèn cất nhà bên cạnh lối đi, ý muốn gặp gỡ các thần Tăng trong hang Bảo phúc ở núi Giới sơn nằm về phía đông nam châu Phần. Về sau, các vị Tăng tu hành trên núi thường thấy Samôn phi hành tự tại giữa không trung.

Lại nữa, trong động Hồng nhai nằm ở phía nam châu Lương hiện còn các chùa xưa bia cũ do Thư Cừ mông Tốn (01-11), vua nhà Bắc Lương, xây dựng trước đây. Trong đó có tượng các vị thần Tăng biết đi hành đạo. Thấy người đến liền đứng lại, người vừa bước qua, lại đi như 1 cũ. Vì thế, hai bên hiện đầy dấu chân, nhưng chẳng thấy ai cả.

– Thuật rằng: Như ba mươi quyển Danh-Tăng-truyện, mười lăm quyển Lương-cao-Tăng-truyện, bốn mươi quyển Đường-cao-Tăngtruyện và truyện, sử của các nhà ghi chép công đức lạ lùng của hơn mấy nghìn danh Tăng được trong đạo ngoài đời ngưỡng mộ. Vì tản mạn trong các chương mục và văn từ phức tạp, nên không thể ghi chép hết ra đây. Thế nên chỉ thuật lại đôi phần để biểu dương đạo hạnh của các cao Tăng ấy mà thôi.

 

/72
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây